Asean
hiện nay đang ở thời điểm chuyển giai đoạn quan trọng hướng tới thiết lập cộng
đồng khu vực vào năm 2015. Đây là một nổ lực mới mang tính lịch sử nhằm biến
Asean từ một hiệp hội mang tính lỏng lèo thành một tổ chức hợp tác liên chính
phủ chặt chẽ với mức độ liên kết cao hơn trên cơ sở pháp lý của một bản hiến
chương chung. Giai đoạn chuyển đổi này đang có nhiều thuận lợi, nhưng cũng gặp
không ít khó khăn, thách thức, đòi hỏi mỗi nước thành viên phải cố gắng vượt
qua trong đó có việc hài hòa hệ thống chính sách pháp luật. trong khuôn khổ bài
viết này chỉ tập trung xem xét tính thống nhất đa dạng đến quá trình hài hóa về
chính trị, văn hóa – xã hội của ASEAN, từ đó bước đầu đưa ra một vài gợi ý
chính sách.
Các
nước Asean nằm ở khu vực đông nam á với diện tích 4.5 triệu km2, dân số trên
550 triệu người và GDP năm 2007 đạt khoảng 1.100 tỷ USD. Do môi trường thuận lợi
cho phát triển nông nghiệp và nằm ở vị trí địa lý – chiến lược, lại giàu có về
tài nguyên thiên nhiên nên từ xa xưa các dân tộc tại khu vực này đã chia sẻ những
nét tương đồng về văn hóa. Đó là nền văn minh lúa nước và chịu ảnh hưởng sâu sắc
của hai luồng văn hóa lớn là Ấn Ddoooj và Trung Hoa. Từ thời Trung đại trở đi,
khu vực này là điểm đến của cả người Ả Tập, Ba Tư. Thông qua thương mại và truyền
giáo, lỗi sống văn hóa vật chất và tình thần của các vùng miền, các dân tộc
trên thế giới , nhất là các tôn giáo lớn như phật giáo, Hinđu giáo, Khổng giáo,
Hồi giáo đã lần lượt được du nhập và trở thành những bộ phận chính cấu thành
nên bản sắc văn hóa của Đông Nam Á. Cho mãi trới ngày nay, những luật tục của
các tôn giáo này vẫn còn được lưu lại, thậm chí ở một số nước vẫn được nhà nước
chấp nhận cho phép song hành với luật chung của quốc gia VD như luật Sharai hay
Adat ở Malaixia và Indonexia).
Dưới
thời cai trị của phương Tây, các nước Đông Nam Á lần nữa lại diễn ra sự biến đổi
lớn về văn hóa và chính trị bắng việc du nhập đạo thiên chúa giáo, hệ thống
pháp luật và chế độ học đường của người Châu Âu. Chính nền văn hóa của phương
Tây đã làm thay đổi diện mạo, chế độ chính trị và cơ cấu của nền kính tế Đông
Nam Á. Làm cho kh vực này nhanh chóng hội nhập vào hệ thống quan hệ quốc tế hiện
đại, nhất là thương mại, vừa làm cho tăng cả những twuong đồng lẫn khác biệt giữa
họ với nhau. Nếu như trước đây ở Đông Nam Á chỉ mới có 3 tôn giáo chính là Phật
giáo, Khổng giáo và Hồi giáo thì từ thế kỷ XVI trở đi có thêm Thiên chúa giáo.
Hơn nữa hệ thống pháp luật châu âu ( bao gồm luật chung – common Law và luật
dân sự - Civil Law) được áp dụng tộng khắp
ở các nước này thay thế các luật bản địa truyền thống. tuy vậy ở mỗi nước thuộc
địa áp dụng những bộ luật khác nhau, Vd như thuộc địa của Anh như Xingapo,
Malaixia và Brunaay thì áp dụng Luật Chung, còn ở các nước thuộc địa của Pháp
Tây ban nha, Bồ Đào Nha và Hà Lan ) như ở Việt Nam, Lào , Campuchia, …..lại
nghiêng về luật Dân sự của napoleoon; còn thái lan thì có sự pha trộn giữa luật
chung và luật dân sự
Dưới
thời chiến tranh, đông nam á là nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn trục tam
giác chiến lược mỹ - trung- xô và là điểm nóng gay gắt nhất trong cuộc đối đầu
nữa hai cực liên xô và mỹ. tác động của sự phân cực trên làm cho đông nam á
chia thành hai chiến tuyến đối lập nhau vế chính trị và tư tưởng. một bên là
các nước đi theo liên xô xã hội chủ nghĩa ( gồm 3 nước Đông Dương là Việt Nam,
lào và campuchia) và bên kia là các nước Asean ban đầu gồm ( Thái Lan,
Malaixia, Philipin, Xingapo và Brunay). Phát triển theo con đường tư bản chủ
nghĩa. Điều này thể hiện tính phát triển không đồng đều, tính đa dạng về chính
trị xã hội vốn tồn tại từ lâu, lại được củng cố dưới thời chiến tranh lạnh.
Từ
đầu những năm 90, sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, đông nam á trwor thành nơi
hội tụ của những nỗ lực hợp tác và liên kết khu vực sau khoảng 30 năm tồn tại
và phát triển, Asean 6 thành Asean với 10 thành viên vào năm 1999 hơn nữ Asean
về cơ bản đã hoàn thành AFTA – nấc thang dấu của tiến trình khu vực hóa và đang
hướng tới hình thành cộng đồng asean với 3 trụ cột là cộng đồng an ninh, cộng đồng
kinh tế và cộng dồng văn hóa – xã hội năm 2015. Mục tiêu xây dựng cộng đồng
asean ( AC) là nhằm tạo ra cho khu vực các nước đông nam á một môi trường hòa
bình, ổn định, lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và văn
hóa, tạo dựng một thị trường thống nhất…..Chịu sự tác động sâu sắc của di sản
truyền thống “thống nhất tron đa dạng” hay “ tương đồng trong khác biệt” của
Đông Nam Á.
Trong quan hệ giữa các nước ASEAN đang dần dần hình thành
một số các nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi người đều
hiểu và tôn trọng áp dụng như: nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu, thân
thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau qua báo chí, giữ gìn đoàn kết ASEAN và
giữ bản sắc chung của Hiệp hội
Mỗi quốc gia ASEAN với những đặc điểm riêng về lịch sử,
truyền thống, địa lí, thành phần dân cư, trình độ phát triển kinh tế, chính
trị, tôn giáo... là nền tảng tạo nên sự đa dạng về xã hội và hệ thống pháp luật
cho khu vực này. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó vẫn có những điểm tương đồng
nhất định. Sự giao lưu và tiếp biến giữa các nền văn hoá, những điểm tương đồng
về lịch sử, truyền thống dân tộc của các quốc gia trong khu vực đã tạo điều
kiện thuận lợi cho các hệ thống pháp luật ở khu vực này có những điểm giống
nhau. Hơn thế, chúng ta không chỉ tìm thấy nhiều điểm tương đồng giữa các hệ
thống pháp luật này mà còn tìm thấy nhiều điểm tương đồng giữa chúng với các hệ
thống pháp luật bên ngoài khu vực Đông Nam Á. Nếu dựa vào cách phân loại của
các học giả luật so sánh trên thế giới, chúng ta sẽ thấy việc xác định dòng họ
của các hệ thống pháp luật ở các nước ASEAN khá thú vị Theo đó, phần lớn hệ
thống pháp luật của các quốc gia này chứa đựng các yếu tố của hai hoặc nhiều
dòng họ pháp luật. Nói cách khác, pháp luật các nước ASEAN chứa đựng tất cả
những yếu tố của các dòng họ của các hệ thống pháp luật trên thế giới.
Civil law được tiếp nhận ở nhiều nước ASEAN chủ yếu gắn liền
với quá trình xâm chiếm thuộc địa của các nước châu âu lục địa đối với các quốc
gia này. Trừ Thái Lan, luật chịu ảnh hưởng của dòng họ Civil law là Việt Nam,
Lào, Campuchia, Indonesia và Philippines đều đã từng là thuộc địa của các nước
thuộc lục địa châu âu là Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha.
Việt Nam, Lào và Campuchia là những nước thuộc địa của Pháp
trong thời gian dài trước khi giành được độc lập. Chính sách thuộc địa của Pháp
ở Đông Dương đã làm cho hệ thống pháp luật của ba nước này tiếp nhận pháp luật
của Pháp theo cách thức bắt buộc. Chẳng hạn, ở Việt Nam trong thời kì Pháp
thuộc, bên cạnh hệ thống pháp luật của các hoàng đế Nam triều, các toà án của
Pháp vẫn áp dụng pháp luật của Pháp đối với "người Pháp và những ngoại
kiều được biệt đãi như người Pháp, người Việt Nam sinh ra ởvùng đất thuộc địa
dù đang sống ở đâu trên đất Việt Nam". Ngay cả sau khi đã giành được độc
lập và thậm chí đã xây dựng hệ thống pháp luật theo mô hình pháp luật XHCN như
ở Việt Nam và Lào, những nhân tố của hệ thống pháp luật Pháp về kỹ thuật pháp
lí, hệ thống khái niệm cơ bản và cấu trúc của pháp luật vẫn tiếp tục được duy
trì. Indonesia là quốc gia trong khu vực nằm dưới sự cai trị của Hà Lan hơn 300
năm (từ cuối thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII). Người Hà Lan tiến hành thuộc
địa hoá quần đảo Indonesia lần đầu trong khoảng 200 năm. Sau đó vùng đất này
được chuyển giao cho người Pháp khi quân đội của Napoleọn Bonaparte lật đổ
chính phủ Hà Lan. Sau gần 10 năm dưới sự cai trị của người Pháp và 4 năm dưới
sự cai trị của người Anh đầu thế kỉ XIX, Indonesia lại chịu sự kiểm soát của Hà
Lan lần thứ hai trong suốt hơn 100 năm (1816- 1942) đến khi quân đội Nhật Bản
xâm chiếm vùng đất này trong Đại chiến thế giới lần thứ II. Quá trình thuộc địa
hoá của các nước này đã làm cho pháp luật lndonesia bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
pháp luật Châu Âu lục địa, đặc biệt là pháp luật của Hà Lan. Nhiều đạo luật của
Indonesia được xây dựng dựa vào luật của Hà Lan, chẳng hạn pháp luật thương mại
của Indonesia chịu ảnh hưởng rất lớn từ Bộ luật thương mại năm 1847 của Hà Lan.
Gần 4 thế kỉ (từ năm 1521 đến 1898 là thuộc địa của người
Tây Ban Nha đã làm cho hệ thống pháp luật Philippines chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi civil law của hệ thống pháp luật châu âu lục địa. Pháp luật của Tây Ban Nha
đã được áp dụng ở Philippines thông qua các sắc lệnh của Hoàng gia Tây Ban Nha
hoặc thông qua việc ban hành các đạo luật dành riêng cho quần đảo này hoặc các
đạo luật được áp dụng chúng cho tất cả các vùng thuộc địa của Tây Ban Nha.
Nhiều bộ luật của Tây Ban Nha có hiệu lực ở Philippines như Bộ luật hình sự năm
1870, Bộ luật thương mại năm 1886 , Luật về hôn nhân năm 1870... Thái Lan là
quốc gia duy nhất trong các nước ASEAN không trải qua chế độ thuộc địa. Tuy
nhiên, trong suốt thế kỉ XIX, để duy trì chủ quyền lãnh thổ của mình, Thái Lan
đã kí kết hàng loạt các hiệp định song phương với các quốc gia phương Tây nhằm
phát triển quan hệ thương mại. Các hiệp định song phương này đã giúp cho Thái
Lan mở cửa thị trường với các nước phương Tây. Sự thay đổi về thương mại đã kéo
theo sự thay đổi về xã hội và pháp luật. Vì thế, hệ thống pháp luật Thái Lan bị
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi pháp luật các nước phương Tây, đặc biệt là pháp luật của
Châu Âu lục địa. Đầu thế kỉ XX, Thái Lan tiến hành cải cách hệ thống pháp luật
và tư pháp. Người Thái đã tiếp nhận hệ thống triết lí pháp luật, tổ chức toà án
và tố tụng của pháp luật Châu Âu và xem pháp luật của Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Anh,
Ý và Nhật Bản là những mô hình cho việc xây dựng pháp luật của mình. Hàng loạt
các bộ luật của Thái Lan đã được ban hành theo mô hình pháp luật của các nước
này như Bộ luật hình sự năm 1908, Bộ luật dân sự và thương mại năm 1925; Bộ
luật tố tụng dân sự năm 1933, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1935.
Các nước ASEAN có hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng của dòng
họ Common law bao gồm: Malaysia, Singapore, Brunei, Myanmar, Philippines. Giống
như nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác trên thế giới, sự ảnh hưởng của Common
law ở các quốc gia Đông Nam Á chủ yếu gắn liền với quá trình thuộc địa hoá của
Anh hoặc sự ảnh hưởng của Mỹ.
Quá trình thuộc địa hoá của Anh đối với các vùng lãnh thổ
của Malaysia đã tạo điều kiện cho pháp luật Anh được áp dụng ở đây. Năm 1786
người Anh thiết lập được sự kiểm soát đầu tiên ở Penang - vùng lãnh thổ khá
rộng lớn của Malaysia. Sau đó, người Anh đã từng bước thực hiện sự kiểm soát
đối với các vùng đất khác. Các hiệp ước được ki kết giữa Anh và Hà Lan (năm
1824 và năm 1891) cùng với những hiệp ước được Anh kí với các vương quốc Hồi
giáo khác ở vùng đất này đã giúp cho người Anh dần kiểm soát được toàn bộ các
vùng lãnh thổ của Malaysia. Gắn liền với quá trình kiểm soát các vùng lãnh thổ
của Malaysia, pháp luật của Anh được tiếp nhận vào Malaysia bằng nhiều hình
thức khác nhau mà chủ yếu là thông qua các thẩm phán và các nhà lập pháp. Theo
đó, các thẩm phán áp dụng các nguyên tắc pháp luật của Anh trong quá trình xét
xử vụ việc, các nhà làm luật khi soạn thảo và ban hành các đạo luật đã đưa các
nguyên tắc pháp luật đã được các thẩm phán áp dụng vào trong các đạo luật.
Ngoài ra, việc các luật gia được đào tạo theo truyền thống của Anh và tiếng Anh
được xem là ngôn ngữ phổ biến trong hoạt động của bộ máy nhà nước cũng là những
nhân tố làm cho Malaysia dễ dàng tiếp nhận pháp luật Anh. Hệ thống pháp luật
của Singaporẹ, mang những đặc điểm của hệ thống pháp luật Common law bắt nguồn
từ lịch sử của quốc gia này. Từ năm 1919, Singapore bắt đầu chịu ảnh hưởng của
pháp luật Anh. Trước khi Văn phòng thuộc địa của Anh ở London kiểm soát hoàn
toàn vùng lãnh thổ Singapore năm 1867, quốc đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát
của chính quyền thuộc địa Anh ở vùng Bengal và chính quyền Ấn Độ (lãnh thổ
thuộc địa của Anh). Vì thế, hệ thống pháp luật Anh đã được tiếp nhận bằng cả 2
cách trực tiếp và gián tiếp vào hệ thống pháp luật singapore. Mặc dù, trong
Tuyên bố thứ hai về nền tư pháp của Hoàng gia Anh ngày 27/11/1826 liên quan đến
việc giải tán các toà án có thẩm quyền xét xử ở Penang và thành lập toà án mới
có thẩm quyền xét xử đối với toàn bộ Vùng thuộc địa eo biển trong đó có
Singapore, không có điều khoản xác định pháp luật nào sẽ được Toà án của Vùng
thuộc địa eo biển áp dụng nhưng dựa vào các phán quyết của Toà án này, từ năm
1835 đến năm 1890, các luật gia của Singapore đã xác định rằng tất cả các luật
của Anh bao gồm common law, luật công bình và luật thành văn có hiệu lực ở Anh
ngày 27/11/1826 sẽ được áp dụng ở Singapore. Ngay cả khi đã trở thành quốc gia
độc lập năm 1963, Singapore vẫn tiếp nhận pháp luật của Anh theo cách riêng của
mình. Ngoài common law, nhiều đạo luật của Anh vẫn được áp dụng ở Singapore với
những điều kiện nhất định. Điều 5 Luật dân sự Singapore ban hành năm 1970 thay
thế cho Sắc lệnh năm 1809 đã xác định một số lĩnh vực thương mại như công ti,
ngân hàng, bảo hiểm hàng hải... của Singapore sẽ áp dụng pháp luật của Anh; Bộ
luật tố tụng hình sự của Singapore cũng xác định pháp luật của Anh trong những
trường hợp nhất định vẫn tiếp tục được áp dụng ở Singapore. Ngày 12/11/1993,
Nghị viện Singapore đã ban hành Luật về áp dụng pháp luật Anh. Luật này quy
định cụ thể những đạo luật của Anh, common law và các nguyên tắc công bình của
Anh sẽ được áp dụng ở Singapore với điều kiện các luật đó phù hợp với hoàn cảnh
của Singapore.
Brunei bắt đầu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hệ thống pháp luật Anh
từ năm 1888 khi Quốc vương của Brunei lúc đó là Hashim Jalilul Alam Aqamaddin
kí hiệp ước với chính quyền Anh đặt Brunei dưới sự bảo trợ của Anh mặc dù trước
đó, Anh và Brunei đã có nhiều hiệp ước khác nhau. Đến năm 1908, một văn bản
được Anh ban hành để sửa đồi các quy định liên quan đến tổ chức và thẩm quyền
của các toà án dân sự và hình sự cũng như luật về tố tụng được áp dụng ở
Brunei. Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật Anh có ảnh hưởng ngày càng mạnh
mẽ đến Brunei. Ngày nay, theo Luật áp dụng của Brunei được ban hành năm 1951,
sửa đổi năm 1984 và 2009 vẫn xác định Brunei tiếp tục áp dụng common law, luật
công bình và các luật thành văn được áp dụng chung của Anh nếu chúng không trái
với điều kiện và hoàn cảnh của Brunei. Như vậy, cả trong lịch sử và hiện tại,
hệ thống pháp luật Brunei chịu ảnh hưởng rất lớn của hệ thống pháp luật Anh.
Hệ thống pháp luật Myanmar bắt đầu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi common law của Anh từ năm 1824 khi kết thúc cuộc chiến tranh lần thứ nhất
giữa Anh và Myanmar (khi đó quốc gia này có tên là Burma). Sau cuộc chiến tranh
này, hai vùng lãnh thổ của Myanmar là Rakhine và Taninthayi bị người Anh thôn
tính và nằm dưới sự kiểm soát của Anh. Sau cuộc chiến tranh lần thứ hai với
Myanmar năm 1852, người Anh kiểm soát thêm hai vùng lãnh thổ khác là Bang và
Moat-ta-ma. Để cai quản vùng đất đã chiếm được người Anh xây dựng hệ thống quản
lí của Anh và các quy định của pháp luật Anh được áp dụng trong việc quản lí
thành phố nơi có cung điện triều đại vua cuối cùng của Myanmar. Đến năm 1886 ,
toàn bộ các vùng lãnh thổ của Myanmar nằm trong sự kiểm soát của người Anh và
để cai quản vùng đất này, người Anh đã xác lập Myanmar thành một tỉnh của Ấn Độ
(khi đó là vùng thuộc địa của Anh) dưới sự kiểm soát của Toàn quyền Ấn Độ. Pháp
luật Anh ở Ấn Độ đã được áp dụng đối với "tỉnh" Myanmar. Tình trạng
này kéo dài đến năm 1935 khi Myanmar được tách khỏi án Độ và chính quyền thuộc
địa Anh thiết lập Myanmar trở thành vùng lãnh thổ thuộc quyền cai tư trực tiếp
của Anh thông qua Toàn quyền ở Myanmar. Myanmar là thuộc địa của Anh cho đến
khi giành được độc lập năm 1948. Trong thời kì này, giống như nhiều vùng thuộc
địa khác của Anh, Hội đồng cơ mật (Privy Council) được xem là cơ quan xét xử
cao nhất của Myanmar. Vì thế, các phán quyết của cơ quan này ảnh hưởng mạnh mẽ
đến pháp luật của Myanmar. Sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh trong suốt
thời kì từ nửa đầu thế kỉ XIX đã làm cho các nhân tố của common law thẩm thấu vào
hệ thống pháp luật của Myanmar trong quá trình phát triển lịch sử của nó cho
đến ngày nay.
Sự kiểm soát của Mỹ đối với quần đảo Philippines theo hiệp
ước Tây Ban Nha và Mỹ được kí kết tại Paris ngày 10/12/1898 đã từng bước làm
thay đổi hệ thống pháp luật của Philippines cho dù trước đó, hệ thống pháp luật
của Tây Ban Nha đã có ảnh hưởng khá sâu sắc với hệ thống pháp luật của nước
này. Các luật lệ của người Philippines dần dần bị bãi bỏ, pháp luật của Tây Ban
Nha đối với vùng lãnh thổ này cùng với các tập quán ở đây cũng bị thay thế nếu
các quy định của nó trái với Hiến pháp Mỹ, các nguyên tắc pháp luật và các thể
chế của Mỹ. Hàng loạt các đạo luật về tổ chức nhà nước được ban hành... Sự kiểm
soát của Mỹ đối với Philippines đã làm cho hệ thống pháp luật của nước này chịu
ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Mỹ. Những nhân tố cơ bản của dòng họ Common
law đã từng bước được tiếp nhận vào hệ thống pháp luật Philipines. Việc áp dụng
án lệ, vai trò của Hiến pháp Philippínes có những điểm rất tương đồng với hệ
thống pháp luật Mỹ ngoài những đặc tính của hệ thống pháp luật Tây Ban Nha đã
được tiếp nhận ở nước này trong suốt gần 400 năm trước đó năm dưới sự cai trị
của người Tây Ban Nha.
Dòng họ pháp luật XHCN cũng hiện diện trong các nước ASEAN
ngay sau Đại chiến thế giới lần thứ II. Ngoài Việt Nam và Lào, hai hệ thống
pháp luật khác là Myanmar và Indonesia cũng đã có những nhân tố nhất định của
dòng họ pháp luật XHCN trong lịch sử phát triển của mình.
Việt Nam được xem là đại diện điển hình của hệ thống pháp
luật XHCN đã và đang tồn tại ở Đông Nam Á. Sau khi giành được độc lập từ năm
1945 và đặc biệt là sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Việt Nam đã bắt đầu
xây dựng mô hình hệ thống pháp luật XHCN ở miền Bắc với việc học tập mô hình
pháp luật của Liên Xô và các nước XHCN ở giai đoạn này, "cùng với sự kế
thừa pháp luật thời chiến của giai đoạn trước với một vài nhân tố chịu ảnh
hưởng của Pháp, tư tưởng pháp luật XHCN và mô hình pháp luật XHCN từng bước
được áp dụng trong công cuộc xây dựng chú nghĩa xã hội ở miền Bắc ".(10)
Quan điểm xây dựng hệ thống pháp luật XHCN tiếp tục được thực hiện sau khi hoàn
thành công cuộc thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ.
Hệ thống pháp luật của Lào có rất nhiều điểm tương đồng với
hệ thống pháp luật Việt Nam. Đặc biệt từ năm 1975, sau khi chế độ dân chủ nhân
dân được xây dựng thay thế cho chế độ quân chủ trước đó, hệ thống pháp luật của
Lào được xây dựng theo mô hình pháp luật của Liên Xô và của Việt Nam. Cuối
những năm 80 và đầu 90 của thế kỉ trước Nhà nước Lào đã thực hiện chính sách
cải cách trong đó có cải cách hệ thống pháp luật. Tuy vậy, những nhân tố cơ bản
của hệ thống pháp luật XHCN vẫn được duy trì trong hệ thống pháp luật của Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào. Những cải cách pháp luật của Lào trong giai đoạn vừa
qua cũng được thực hiện trên cơ sở kinh nghiệm cải cách pháp luật của Việt Nam.
Trong lịch sử phát triển của Myanmar, sau khi giành được độc
lập kể từ năm 1948, thời kì từ năm 1962 đến năm 1988, các nhà lãnh đạo Myanmar chủ
trương xây dựng mô hình XHCN cho quốc gia này. Mặc dù không giống hoàn toàn với
các hệ thống pháp luật XHCN khác nhưng nhiều chính sách của chính phủ mà đứng
đầu là Tướng Ne Win đã được thực hiện theo mô hình pháp luật XHCN. Theo đó,
Tướng Ne Win đã tạo ra hệ thống chính trị được gọi là "Con đường lên chủ
nghĩa xã hội của Burma", nhà nước pháp quyền mới được xây dựng theo hệ tư
tưởng XHCN.(11) Dưới sự lãnh đạo của Đảng Chương trình XHCN Bunna, hệ thống
thương mại và công nghiệp của Burma đã được quốc hữu hoá Điều này đã được thể
hiện trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật nước này. Từ năm 1962 -
1974 đã có 182 đạo luật được ban hành. “Trong thời kì này, các đạo luật không
phù hợp với chế độ XHCN đã bị bãi bỏ và các đạo luật góp phần cho định hướng
của chế độ đã được ban hành”.(12) Đáng chú ý là Luật phòng chống sự vi phạm
việc thiết lập hệ thống kinh tế XHCN năm 1964 và Luật trao quyền thành lập hệ
thống kinh tế XHCN năm 1965. Trong Lời nói đầu và Điều 1 Hiến pháp năm 1974 của
Myanmar khẳng định rõ Myanmar là nhà nước XHCN và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Chương trình XHCN Myanmar. Indonesia dưới thời kì lãnh đạo của Sukamo ( 1957 -
1965) cũng tiếp nhận những quan điểm nhất định của hệ thống pháp luật XHCN. Đặc
biệt, Tống thống Sukamo sau cuộc viếng thăm Trung Quốc tháng 10/1956 đã tuyên
bố khái niệm về chính quyền mới.(13) Theo đó, chính quyền của ông là sự kết hợp
của ba nhân tố: chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản. Đảng cộng
sản Indonesia, Đảng dân tộc Indonesia đã ủng hộ mạnh mẽ quan niệm này. Mặc dù,
Đảng chính trị Hồi giáo phản đối nhưng với sự hỗ trợ của lực lượng quân đội,
ông đã từng bước xây dựng chính quyền của mình. Cùng với việc xây dựng chính
quyền theo quan điểm của mình, Tổng thống Sukamo với sự ủng hộ của Đảng cộng sản
đã thực hiện nhiều chính sách pháp luật XHCN ở Indonesia trong thời kì này.
Chính quyền và chính sách pháp luật của Sukamo chấm dứt cùng với việc lên nắm
quyền của Tổng thống Suharto từ năm 1967.
Đa số các học giả hiện đại cho rằng đạo Hồi xuất hiện ở khu
vực Đông Nam Á từ khoảng cuối thế kỉ XII đầu thế kỉ XIV.(14) Những quốc gia có
nhiều cư dân Hồi giáo là Indonesia Malaysia, Philippines, Brunei, Singapore và
Thái Lan. Sự xuất hiện của đạo Hồi đã có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát
triển pháp luật của các quốc gia trong khu vực này. Các hệ thống pháp luật của
các nước ASEAN chịu ảnh hưởng của Luật Hồi giáo bao gồm: Malaysia, Indonesia,
Brunei, Thái Lan, Philippines. Ở các quốc gia này, cộng đồng Hồi giáo có hệ
thống luật lệ riêng, “hầu hết các hệ thống pháp luật, thậm chí, Thái Lan,
Philippines, Singapore - những nước không có đa số người Hồi giáo, vẫn coi luật
Hồi giáo như là hệ thống pháp luật tách biệt".(15) Nhiều quốc gia đã thành
lập các toà án Hồi giáo riêng biệt để xét xử các tranh chấp của các tín đồ Hồi
giáo như Malaysia, Indonesia, Brunei đối với các lĩnh vực được luật Hồi giáo
quy định. Trong khi đó ở Thái Lan, các vụ việc có liên quan đến tín đồ Hồi giáo
thường được xét xử bởi các thẩm phán thường cùng với một thẩm phán Hồi giáo
(Datoh Yutithum).(16)
Những điểm khái quát nêu trên cho thấy tính đa dạng của pháp
luật ở các nước ASEAN. Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia đều chứa đựng
những yếu tố pháp luật của ít nhất hai dòng họ pháp luật khác nhau. Những điểm
khái quát ở trên cũng cho thấy sự hiện diện của các dòng họ pháp luật cơ bản
trên thế giới trong pháp luật của 10 nước khu vực Đông Nam Á là thành viên của
ASEAN. Sự đa dạng pháp luật này cũng sẽ là một thách thức khá lớn đối với các
luật gia khi các quốc gia này tiến tới một Cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á
Hội nhập quốc tế đã và đang là xu thế toàn cầu. Tại khu vực
Đông Nam Á, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập ngày 31/12/2015 đã trở
thành bước tiến mới của các quốc gia ASEAN trong hội nhập sâu và toàn diện về
kinh tế.
Cùng với những cơ hội mà AEC mang lại, các quốc gia trong
khu vực sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhất định; trong đó có
những vấn đề liên quan đến lĩnh vực pháp luật và tư pháp. Các tranh chấp dân
sự, kinh doanh thương mại xuyên biên giới sẽ ngày càng gia tăng và phức tạp
hơn. Việc giải quyết tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài gia tăng tất yếu
phát sinh nhu cầu tương trợ tư pháp giữa các nước, tìm kiếm những biện pháp để
giải quyết những xung đột tư pháp quốc tế. Trong bối cảnh đó, việc hội nhập
ASEAN và hài hòa hóa tư pháp trong ASEAN trở thành mối quan tâm hàng đầu của
các cơ quan tư pháp ASEAN.
Chính vì vậy, “hài hòa hóa tư pháp trong ASEAN là quá trình
mà hệ thống tư pháp của mỗi quốc gia thành viên có thể xích lại gần nhau hơn,
giảm thiểu các xung đột pháp luật trong lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự. Thực
hiện hội nhập ASEAN và hài hòa hóa tư pháp giúp hệ thống tư pháp các quốc gia
thành viên duy trì thường xuyên quá trình liên kết, xử lý kịp thời những xung
đột phát sinh góp phần xây dựng một ASEAN thống nhất trong đa dạng”, Chánh án
khẳng định.
Tại tọa đàm, các chuyên gia, nhà khoa học đã chia sẻ kinh
nghiệm, hiểu biết về những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hài hòa trong
tư pháp; trao đổi sự cần thiết, nhu cầu hài hòa hóa tư pháp trong các nước
ASEAN; phân tích những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc về hài hòa hóa tư pháp
trong lĩnh vực đầu tư; các vấn đề về thực tiễn tương trợ tư pháp trên từng lĩnh
vực cụ thể trong hoạt động tố tụng của Tòa án các nước ASEAN; thẩm quyền xét
xử; pháp luật áp dụng về bồi thường thiệt hại trong ASEAN; tương trợ tư pháp;
giải quyết tranh chấp về quyền nuôi dưỡng; thi hành bản án, quyết định của Tòa
án; quyết định của Trọng tài nước ngoài…
Theo đó, các ý kiến thống nhất hài hòa hóa về tư pháp trong
các nước ASEAN là rất cần thiết, đòi hỏi mỗi quốc gia phải đóng vai trò tích
cực trong việc thiết lập một khuôn khổ pháp lý chung của ASEAN nhằm giảm sự
khác biệt, những rào cản pháp lý và hội tụ pháp luật. Hội nhập ASEAN và hài hòa
tư pháp trong ASEAN có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chính quá trình hội nhập
phát sinh nhu cầu hài hòa tư pháp và ngược lại hài hòa tư pháp làm cho quá
trình hội nhập ngày càng trở nên sâu rộng hơn.
Đề cập đến vai trò của Tòa án Việt Nam trong quá trình hội
nhập ASEAN và hài hòa hóa tư pháp ASEAN, các ý kiến nhất trí khẳng định: Tòa án
Việt Nam đã có nhiều nỗ lực liên quan đến hợp tác ASEAN và hài hòa hóa tư pháp
trong ASEAN như: nỗ lực trong việc đẩy mạnh công nhận, thực thi bản án, quyết
định của Tòa án và phán quyết của trọng tài giữa các nước; kiến nghị với Quốc
hội sửa đổi, bổ sung các luật, đặc biệt là luật tố tụng bảo đảm hài hòa, phù
hợp với các tiêu chuẩn và chuẩn mực quốc tế…
Theo GS.TS Lê Hồng Hạnh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu ASEAN,
“sẽ không tồn tại môi trường đầu tư hấp dẫn nếu các tranh chấp kinh tế không
được giải quyết công bằng”. Do đó, Tòa án ở bất kỳ quốc gia nào cũng là thiết
chế giải quyết tranh chấp quan trọng, phổ biến nhất, điều này đặc biệt đúng đối
với Việt Nam, khi các thiết chế giải quyết tranh chấp lựa chọn chưa được chú
trọng từ phía nhà nước, chưa được tin tưởng từ phía doanh nghiệp.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc biệt với việc thành lập
AEC, một trong những điều kiện tiên quyết là đảm bảo độc lập tư pháp, trong đó
có vai trò của Chánh án TANDTC và hỗ trợ hiệu quả các phương thức giải quyết
tranh chấp lựa chọn
Việt Nam đang ngày càng chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, có hiệu quả với trọng tâm là hội nhập kinh
tế. Bên cạnh việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và gần đây vừa ký
Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh kinh tế Á - ÂU (EAEU), đặc biệt
đang nỗ lực cho việc hội nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và xây
dựng Cộng đồng ASEAN[1].
Trong quá trình hội nhập quốc tế nói
chung và đặc biệt hội nhập ASEAN nói riêng, hệ thống pháp luật Việt Nam sẽ
không tránh khỏi những tác động nhất định về kinh tế, chính trị cũng như pháp
luật. Vì vậy, thay đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia cho phù hợp
với tiến trình hài hòa hóa pháp luật trong Cộng đồng ASEAN là một yêu cầu tất
yếu hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, làm thế nào để hài hòa hóa pháp luật trong
Cộng đồng ASEAN một cách hiệu quả nhất, vừa phù hợp với hệ thống pháp luật Việt
Nam, đồng thời, hài hòa với pháp luật chung của các quốc gia trong khu vực
ASEAN đang là ván đề cấp thiết đặt ra.
1. Hài hòa pháp luật và lợi ích
với Việt Nam
Hài hòa hóa pháp luật (legel harmonization) là sự kiện các
quốc gia thống nhất các mục tiêu chung cần đạt được; sau đó mỗi quốc gia có
quyền tự sửa đổi, ban hành pháp luật mới trong nước của mình để đạt được các
mục tiêu chung đó[2].
Hài hòa hóa pháp luật là một trong những khuynh hướng quan
trọng nhất trong các khuynh hướng phát triển chung của pháp luật trên thế giới.
Bởi lẽ, với quá trình mở rộng hợp tác lẫn nhau trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt
trong lĩnh vực hợp tác kinh tế thì pháp luật đóng vai trò quan trọng, là yếu tố
đảm bảo tính “liên kết ổn định”, vì vậy nhu cầu pháp luật chung ngày càng chiếm
ưu thế trong pháp luật quốc tế.
Hài hòa hóa pháp luật giúp cho các quốc gia xích lại gần
nhau hơn về mặt pháp luật, góp phần vào việc thúc đẩy các quốc gia trong khu
vực hợp tác với nhau về phương diện chính trị, kinh tế một cách dễ dàng hơn,
tạo thuận lợi cho sự phát triển chung của các quốc gia trong cùng một cộng
đồng.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc hài hòa hóa pháp
luật, trên thế giới có những khu vực không chỉ thành công với chủ trương hài
hòa hóa pháp luật từ rất sớm, đưa lại nhiều giá trị thực tiễn cao, mà đỉnh cao
nhất các khu vực này còn đạt được trong tiến trình đàm phán là nhất thể hóa
pháp luật, góp phần thành công nhất định trong sự phát triển bền vững chung của
từng quốc gia trong cộng đồng khu vực đó. Điển hình như Cộng đồng kinh tế chung
Bắc Âu, từ đầu thế kỷ 19 đã bắt đầu chú trọng tới quá trình nhất thể hóa pháp
luật, ban hành những văn bản chung cho 5 quốc gia trong Cộng đồng kinh tế chung
Bắc Âu, sự hợp tác này chính thức vào năm 1872, khi các nhà luật học Bắc Âu tổ
chức đại hội với mục đích hỗ trợ cho việc nhất thể hóa pháp luật. Đại hội đã
thông qua về sự cấp thiết của việc nhất thể hóa pháp luật hối phiếu và sau đó
hàng loạt các văn bản luật chung đã có hiệu lực trong khu vực như Luật về nhãn
hiệu hàng hóa, Luật về Công ty thương mại, Luật Hàng hải… Không chỉ Bắc Âu mà
Liên minh châu Âu (European Union - EU) còn được coi là một trong những mô hình
tiến bộ nhất có thể tham khảo về hài hòa hóa pháp luật, bởi sự tiến bộ của việc
hài hòa hóa được xác định dựa trên sự thỏa hiệp về chính sách giữa các nước
thành viên hay những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động hài hòa hóa được thể
hiện bằng ngôn ngữ có thể tạo ra sự linh hoạt hay thỏa hiệp…
Thực tế, 2 trường hợp hài hòa hóa pháp luật trong Cộng đồng
chung Bắc Âu và EU không chỉ mang lại thành công về hạn chế xung đột pháp luật
trong khu vực mà còn giúp các quốc gia trong cộng đồng chung phát triển bền
vững về mọi mặt: Cộng đồng kinh tế chung châu Âu, với sự thành công trong quá
trình hài hòa hóa pháp luật đã giúp đạt được mục tiêu: i) Thiết lập một liên
minh thuế quan với thuế suất nội địa chung; ii) Kiện toàn các chính sách chung
về nông nghiệp, hàng hải, thương mại; iii) Mở rộng cộng đồng tới các nước châu
Âu còn lại[3]. Còn đối với Cộng đồng chung Bắc Âu, các
quốc gia như: Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy và
Phần Lan là các quốc gia đang phát triển tốt nhất thế giới. Các quốc gia này
luôn ở phía trên bảng xếp hạng từ cạnh tranh kinh tế, y tế đến chỉ tiêu về hạnh
phúc. Mô hình kinh tế tư bản Bắc Âu đã thu hút sự chú ý của thế giới[4]. Để tạo nên sự thành công đó phần lớn nhờ
vào sự thành công của quá trình hài hòa hóa pháp luật trong khu vực Cộng đồng
chung Bắc Âu. Vì vậy, trong thời gian tới, khi Việt Nam tham gia
vào Cộng đồng ASEAN, đồng thời tiến tới xây dựng chính sách hài hòa hóa pháp
luật trong khu vực, sẽ đưa đến cho Việt Nam nhiều lợi ích. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chính trị, hài hòa hóa pháp luật góp phần vào việc
thúc đẩy hợp tác về mặt chính trị giữa các quốc gia trong cộng đồng một cách
gần gũi hơn. Bởi, pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, khi các công cụ
quản lý đó có sự tương đồng về mặt nội dung, sẽ quyết định đến một số tương
đồng trong chính sách quản lý Nhà nước của cộng đồng đó, hạn chế được xung đột
trong các chiến lược quản lý của các quốc gia. Khi không có sự xung đột giữa
các chính sách quản lý của mỗi một quốc gia, góp phần tạo một môi trường hợp
tác chính trị bền vững và thống nhất.
Thứ hai, về
kinh tế, hài hòa hóa pháp luật của Việt Nam với các thành viên ASEAN, đặc biệt
trong lĩnh vực pháp luật thương mại, góp phần giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường - một trong ba khâu đột phá chiến lược của Việt Nam hiện
nay. Công việc hài hòa này làm gia tăng tính dự đoán trước và làm giảm tính
không chắc chắn của việc áp dụng pháp luật Việt Nam. Điều đó đóng vai trò quan
trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi, giảm chi phí giao dịch, kinh doanh và rủi ro pháp lý ở Việt
Nam. Qúa trình này giúp quan hệ kinh tế cũng như quan hệ văn hóa - xã hội và an
ninh quốc phòng của Việt Nam ngày càng gắn kết với các thành viên khác trong
khu vực ASEAN[5].
Thứ ba, về pháp luật quốc gia: (i) Hài hòa hóa pháp luật giúp cho
các quốc gia xích lại gần nhau hơn về pháp luật; (ii) giải quyết được tình
trạng xung đột pháp luật giữa các quốc gia; (iii) giúp cho các quốc gia tiếp
thu, học hỏi lẫn nhau trong quá trình lập pháp để hoàn thiện hơn pháp luật của
quốc gia mình. Đặc biệt, Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, pháp luật cũng
đang ngày một hoàn thiện để phù hợp với bối cảnh kinh tế, chính trị đang thay
đổi hiện nay, nên việc tham gia vào Cộng đồng chung ASEAN và tham gia vào tiến
trình hài hóa hóa pháp luật giữa các quốc gia trong khu vực sẽ giúp Việt Nam có
một cái nhìn tổng thể giữa bức tranh pháp luật các quốc gia trong khu vực, giúp
cho việc tiếp thu có chọn lọc những giá trị pháp lý của những quốc gia có hệ
thống pháp luật tiến bộ, tiến tới hoàn thiện hơn pháp luật của quốc gia.
Khó khăn đối với Việt Nam trong
quá trình hài hòa hóa pháp luật và một số nguyên nhân
Mặc dù, có những thuận lợi cơ bản nêu trên, quá trình hài
hòa hóa pháp luật trong ASEAN của Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn
do các nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Nguyên nhân khách quan
Một là, mặc
dù các quốc gia ASEAN đang quyết tâm xây dựng một cộng đồng kinh tế chung, đồng
thời cũng tiến tới hài hòa hóa pháp luật với chủ trương xây dựng một hệ thống
pháp luật chung, thống nhất giữa các quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên, một khó
khăn đặt ra đối với Cộng đồng ASEAN hiện nay là pháp luật của các quốc gia
trong khu vực, từ Hiến Pháp đến văn bản luật đều khác nhau giữa các hệ thống
pháp luật. Điều này sẽ gây ra nhiều khó khăn đối với Việt Nam nói riêng và đối
với Cộng đồng ASEAN nói chung trong vấn đề xây dựng một luật chung thống nhất.
Ví dụ, nghiên cứu về quy định tính hiệu lực trong Hiến pháp của các quốc gia
ASEAN cho thấy hoàn toàn không có sự thống nhất giữa các quốc gia trong việc
quy định tính hiệu lực của Hiến pháp. Ở góc độ chung, dựa trên sự đáp ứng các
tiêu chí đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp (Hiến pháp là đạo luật pháp lý cao
nhất; quy định mọi cơ quan nhà nước, cá nhân, tổ chức đều phải tuyệt đối tuân
thủ Hiến pháp; quy định bất kỳ văn bản pháp luật nào trái với Hiến pháp đều
phải bị bãi bỏ hoặc không có hiệu lực thi hành) có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm
1, các bản Hiến pháp trực tiếp quy định tính hiệu lực tối cao của Hiến pháp
(bao gồm Hiến pháp Liên Bang Malaysia, Vương quốc Thái Lan và Cộng hòa
Singapore); nhóm 2, các bản Hiến pháp gián tiếp quy định tính hiệu lực tối cao
của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp các quốc gia như Cộng Hòa Indonesia và Cộng
hòa Philippines); nhóm 3, các bản Hiến pháp ghi nhận không rõ ràng về tính hiệu
lực của Hiến pháp (bao gồm Hiến pháp các quốc gia: Vương quốc Brunei; Cộng hòa
liên bang Myanmar, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Hiến pháp Vương quốc
Campuchia)[6].
Hai là, mặc dù
nội bộ ASEAN đã có các cơ chế giải quyết tranh chấp nhưng chưa được áp dụng
trên thực tế một cách hiệu quả. Theo quy định tại Hiến chương ASEAN năm 2007,
các tổ chức và cơ chế của ASEAN gồm Hội đồng thượng đỉnh ASEAN; Hội đồng điều
phối ASEAN (ACC); Hội đồng về cộng đồng ASEAN; các cuộc họp cấp Bộ trưởng
ASEAN; Uỷ ban đại diện thường trực của ASEAN; Tổng thư ký và Ban thư ký của
ASEAN. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết tranh chấp chủ yếu thông qua đối thoại, đàm
phán và tham vấn, bên cạnh đó biện pháp hòa giải hoặc trung gian là cơ chế
thường được lựa chọn áp dụng. Thực tế, các tổ chức của ASEAN trong vấn đề giải
quyết tranh chấp chưa phát huy hiệu qủa vai trò của mình.
Nhìn chung, việc áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của
ASEAN trong thực tế để giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành
viên ngày càng khiêm tốn. Ngoài lý do xuất phát từ truyền thống văn hóa pháp
luật Đông Nam Á như đã nói ở trên, thì một trong những nguyên nhân của tình
trạng này xuất phát từ bất cập của chính cơ chế giải quyết tranh chấp. Ví dụ
như quy trình giải quyết tranh chấp thương mại theo Nghị định thư Viêng Chăn
năm 2004 bị đánh giá là chưa đảm bảo tính minh bạch, thời gian quá dài…; ngoài
ra, pháp luật về giải quyết tranh chấp của ASEAN luôn tôn trọng tự do thỏa
thuận. Vì vậy, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN không phải
là nghĩa vụ và là lựa chọn duy nhất của các quốc gia thành viên[7].
Ba là, Cộng
đồng ASEAN chưa có một hệ thống các thiết chế xây dựng các quy định pháp lý cho
cộng đồng như Liên minh châu Âu (gồm: Nghị viện EU, Hội đồng EU và Ủy ban EU).
Hiện nay, trong 209 công cụ pháp lý ASEAN, có 147 công cụ có hiệu lực, 21 công
cụ chưa có hiệu lực, 39 công cụ bị bãi bỏ hoặc hết hiệu lực pháp luật. Trong
đó, mỗi hội đồng của Cộng đồng ASEAN và các cơ quan cấp bộ trưởng, các cơ quan
giúp việc đang hoàn thiện cơ chế pháp lý theo lĩnh vực mà họ phụ trách[8].
Nguyên nhân chủ quan
Một là, hệ
thống pháp luật Việt Nam hiện hành còn nhiều hạn chế: Thiếu cụ thể, rõ ràng;
trùng lặp, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau; nhiều văn bản thiếu tính khả
thi; tính ổn định của hệ thống quy phạm còn yếu. Một thời gian dài công tác rà
soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật chưa được chú trọng, do đó, thực
tế có tình trạng khó phân biệt văn bản nào còn hiệu lực, văn bản nào hết hiệu
lực. Hệ thống pháp luật như vậy gây khó khăn trong việc hài hòa hóa pháp luật
với các quốc gia khác trong khu vực. Đặc biệt, trong chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến 2020 đặt
ra yêu cầu “xác định rõ quy trình, cơ chế “nội luật hóa” các điều ước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên”, tuy nhiên Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều
ước quốc tế năm 2005, cũng như dự thảo mới nhất hiện nay của Luật sửa đổi vẫn
tồn tại 2 thực trạng: (i) Một số quy định về trình tự, danh nghĩa ký kết điều
ước quốc tế chưa phù hợp với Hiến pháp Việt Nam năm 2013; (ii) Vị trí của điều
ước quốc tế chưa được thể hiện rõ trong thứ tự các nguồn của hệ thống pháp luật
Việt Nam[9].
Hai là, địa vị pháp lý của Việt Nam trên trường quốc tế chưa
cao, nên trong quá trình hài hòa hóa pháp luật, chúng ta khó có thể bảo vệ được
quan điểm của mình trong việc đưa ra các quan điểm thống nhất các mục tiêu
chung cần đạt được với các quốc gia trong khu vực để hoàn thiện pháp luật phù
hợp với những mục tiêu chung nói riêng và đạt kết quả cao trong quá trình hài
hòa hóa pháp luật trong Cộng đồng ASEAN nói chung. Quan trọng hơn, năng lực cán
bộ, chuyên gia nghiên cứu, xây dựng pháp luật còn thiếu và yếu, chưa có đủ điều
kiện nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các luật mẫu, các chuẩn mực pháp lý chung có
liên quan. Điều này dẫn đến thực tế là việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế liên
quan trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh đa phần mang tính hình thức[10].
Ba là, một
trong những khó khăn nhất là vấn đề ý thức chấp hành pháp luật của người dân,
của các cơ quan, tổ chức. Có thể nói, phần
lớn người dân Việt Nam thường cho rằng “pháp luật” là những mệnh lệnh mà người
ta cần phải tuân thủ, là hình phạt, là trừng trị… Một số người lại quan niệm
rằng, pháp luật chỉ là để giải quyết các tranh chấp. Người dân thường chỉ quan
tâm tới pháp luật khi bản thân họ phải rơi vào tình thế sự việc miễn cưỡng, lợi
ích bị xâm hại… dính líu tới pháp luật (kiện cáo, tranh chấp, bị phạt, bị cưỡng
chế…)[11]. Với ý thức chấp hành pháp luật như vậy,
khó có thể triển khai thực hiện luật chung của khu vực trên thực tế đối với
Việt Nam, điều này sẽ là mối lo ngại lớn khi Việt Nam hài hòa với pháp luật các
quốc gia trong khu vực.
Một số kiến nghị
Kiến nghị đối với các quốc gia ASEAN
Thứ nhất, các quốc
gia trong khu vực cần hoàn thiện pháp luật quốc gia mình theo hướng tương đồng
và phù hợp với pháp luật lẫn nhau trong cộng đồng ASEAN, quan trọng nhất là hài
hòa về các quy định trong Hiến pháp, vì trong nền dân chủ hiện đại thì Hiến
pháp giữ vị trí tối thượng về giá trị pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc
gia. Hiến pháp phù hợp sẽ giúp các quốc gia dễ dàng sửa đổi luật thực định theo
hướng hài hòa pháp luật lẫn nhau.
Thứ hai, cần
phát huy hiệu quả, vai trò của các tổ chức ASEAN trong việc giải quyết tranh
chấp, đặc biệt là tăng cường hơn nữa vai trò của Ban Thư ký ASEAN. Quan trọng
nhất, trong thời gian tới cần thành lập nhóm cấp cao ASEAN để hoạt động sát sao
hơn trong Cộng đồng ASEAN. Cần trao chức năng chính của nhóm này chủ yếu về
chính trị và yếu tố pháp luật. Nhóm này phải có cuộc họp hàng tháng để trao đổi
về vấn đề hợp tác sau năm 2015 của Cộng đồng ASEAN. Bởi yếu tố chính trị giúp
các quốc gia trong khu vực hợp tác một cách hòa bình, ổn định. Yếu tố pháp luật
là công cụ pháp lý mang đến yếu tố công bằng trong quyền, lợi ích giữa các quốc
gia trong cùng một cộng đồng. Duy trì được 2 yếu tố này sẽ giúp chúng ta xây
dựng được một cồng đồng chung ASEAN hợp tác, vững mạnh về mọi mặt.
Kiến nghị đối với Việt Nam
Có thể khẳng định, hài hòa hóa pháp luật trong cộng đồng
chung ASEAN không chỉ tạo cơ hội thuận lợi cho các quốc gia trong khu vực xích
lại gần nhau hơn về kinh tế, chính trị và pháp luật, mà còn giúp cho các quốc
gia thành viên trong cộng đồng chung thể hiện được tiếng nói của mình trước
cộng đồng chung để tiến tới xây dựng một đất nước phát triển. Do đó, trong quá
trình tiến tới hài hòa hóa pháp luật ASEAN, Việt Nam cần phải tích cực, chủ
động hơn trong quá trình này. Cụ thể:
Thứ nhất, muốn
quá trình hài hòa hóa pháp luật khu vực ASEAN diễn ra với nhiều thuận lợi và
đạt hiệu quả cao, thời gian tới phải đảm bảo các yếu tố đồng bộ, thống nhất,
khả thi, công khai, minh bạch theo đúng tinh thần của chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Đặc biệt, cần chủ động hoàn thiện pháp luật quốc gia theo tinh thần của pháp
luật chung trong cộng đồng. Điều quan trọng nhất, cần chú trọng sửa đổi quy
định vị trí của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế trong vị
trí nguồn của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, nâng
cao năng lực cán bộ, chuyên gia pháp lý am hiểu pháp luật quốc tế. Các cán bộ,
chuyên gia pháp lý cần được tạo điều kiện để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm
trong khu vực một cách hiệu quả.
Thứ ba, phải
cố gắng khẳng định được vị trí của Việt Nam về mặt kinh tế, chính trị, xã hội
trên trường quốc tế và trong khu vực ASEAN để tạo dựng tiếng nói về pháp luật
Việt Nam trong tiến trình đàm phán, xây dựng một luật chung thống nhất trong
cộng đồng ASEAN.
Thứ tư, phải
chú trọng đến tuyên truyền ý thức của người dân, của cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp… trong việc tôn trọng và thực hiện luật chung thống nhất khi quá trình
hài hòa hóa pháp luật thành công. Bởi hài hòa hóa pháp luật trên thực tế mới là
thước đo đánh giá sự thành công của quá trình hài hòa hóa pháp luật trong khu
vực.